Thân thế Hán_Quang_Vũ_Đế

Nhánh Thung Lăng

Hán Quang Vũ Đế Lưu Tú là cháu 9 đời của Hán Cao Tổ Lưu Bang. Tổ 6 đời của Lưu Tú là Hoàng lục tử Trường Sa Định vương Lưu Phát (劉發), Hoàng tử thứ sáu của Hán Cảnh Đế Lưu Khải. Mẹ Lưu Phát là Đường Cơ (唐姬) vốn chỉ là nô tì, vì được sủng hạnh mà sinh ra Hoàng tử, nên Lưu Phát không được Cảnh Đế yêu, chỉ phong làm Trường Sa vương (長沙王), đất phong tại một vùng xa kinh thành, ẩm thấp và cằn cỗi.

Làm Trường Sa vương được 28 năm thì Lưu Phát mất, con trưởng là Lưu Dung (劉庸) kế vị, tức là Trường Sa Đái vương (長沙戴王). Tổ 5 đời của Lưu Tú tên Lưu Mãi (劉買), là con thứ của Trường Sa vương Lưu Phát nên chỉ được phong Hầu tước ở hương Thung Lăng, huyện Linh Đạo thuộc quận Linh Lăng (thuộc Đông bắc Ninh Viễn, Hồ Nam hiện nay), gọi là Thung Lăng hầu (舂陵侯).

Lưu Mãi có hai con, con trưởng Lưu Hùng Cừ (劉熊渠), con thứ là Lưu Ngoại (劉外) chính là cụ của Lưu Tú. Theo quy định, Lưu Hùng Cừ thừa kế ngôi Thung Lăng hầu, còn Lưu Ngoại không được chức vụ gì, chỉ có thể tiến thân bằng khoa cử hoặc các hình thức khác để làm quan. Sau Lưu Ngoại tự phấn đấu làm Thái thú quận Uất Lâm (khu vực Quế Bình, Ngọc Lâm tỉnh Quảng Tây hiện nay).

Dời về Nam Dương

Con Lưu Hùng Cừ là Lưu Nhân (劉仁) nối chức Thung Lăng hầu, còn con Lưu Ngoại là Lưu Hồi (劉回) - ông nội của Lưu Tú - cũng tự phấn đấu làm chức Đô uý ở Cự Lộc (vùng Cự Lộc thuộc tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc). Lưu Hồi là em họ của Thung Lăng hầu Lưu Nhân, có công lớn trong việc vận động Hán Nguyên Đế Lưu Thích cho gia tộc họ Lưu ở Thung Lăng được dời từ huyện Linh Đạo xa xôi và khắc nghiệt về huyện Thái Dương, thuộc quận Nam Dương - nằm trong bản đồ Trung nguyên. Vùng Nam Dương khi đó ngoài gia tộc anh em Lưu Nhân còn có những chi khác của Lưu Phát trước đây như Lưu Đan (劉丹) cũng được dời từ Trường Sa về sớm hơn[3] và các chi này đều có quan hệ khá chặt chẽ.

Lưu Hồi có hai con trai, con trưởng là Lưu Khâm (劉欽), con thứ là Lưu Lương (劉良). Lưu Khâm là cha Lưu Tú, lấy con gái hào phú Phàn Trọng (樊重) là Phàn Nhàn Đô (樊娴都). Thời Hán Thành Đế, Lưu Khâm qua sát hạch được phong làm Huyện lệnh của huyện Tế Dương, thuộc quận Trần Lưu, sau chuyển về làm Huyện lệnh ở Nam Đốn. Lưu Lương được cử làm "Hiếu liêm", rồi làm Huyện lệnh huyện Tiêu, thuộc Bái quận[4].

Lưu Khâm và Phàn Nhàn Đô sinh được 6 người con: 3 trai 3 gái. Lưu Tú là con thứ 5 trong nhà, ra đời tại nha phủ huyện Tế Dương vào ngày 15 tháng 1, năm 5 TCN. Ông có 2 anh và 2 chị, 1 em gái; theo thứ tự thì là: chị cả Lưu Hoàng (劉黃), chị thứ Lưu Nguyên (劉元), anh ba Lưu Diễn, anh bốn Lưu Trọng (劉仲) cùng em gái út Lưu Bá Cơ (劉伯姬). Anh em nhà Lưu Tú xuất thân trong gia đình Huyện lệnh, lại là thân tộc Nam Dương Lưu thị nên gia thế cũng gọi là khá giả, do vậy các anh chị em trong nhà Lưu Tú được cha mẹ quan tâm dạy dỗ từ nhỏ. Khi Lưu Tú được 11 tuổi, Lưu Khâm bị bệnh đột ngột qua đời, Phàn Nhàn Đô đưa 6 anh em Lưu Tú sống dựa vào chú là Lưu Lương.

Năm 8, khi Lưu Tú 15 tuổi, Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, lập ra nhà Tân. Anh cả Lưu Diễn nuôi chí chống lại Vương Mãng để báo thù cho nhà Hán. Trong khi Lưu Tú chăm chỉ học hành và giữ nề nếp trong nhà thì Lưu Diễn tỏ ra khác hẳn, thích sống phóng khoáng, bán tài sản kết giao giang hồ theo phong cách của Lưu Bang. Lưu Tú bị anh chê là có tầm nhìn hạn hẹp, chỉ luẩn quẩn trong nhà, chú tâm những điều vụn vặt như ông Lưu Trọng - anh của Lưu Bang trước kia[5]. Tuy nhiên Lưu Tú không tranh luận với anh về việc đó. Sự khiêm tốn của Lưu Tú khiến ông ít được mọi người chú ý.

Khoảng niên hiệu Thiên Phượng nhà Tân (14 - 19), Lưu Tú lên du học ở Trường An. Lưu Tú qua các kỳ sát hạch, được vào nhà Thái học để học chính sự theo danh nho Hứa Tử Uy. Do thiếu tiền học, ông cùng các bạn học như Đặng Vũ, Chu Hựu chung nhau tiền làm thuốc viên bán; hoặc mua lừa rồi cho người khác thuê chở hàng kiếm tiền[6]. Ngoài ra, ông còn được Chu Hựu nhà khá giả chu cấp, giúp đỡ. Tuy nhiên sau đó vì khó khăn quá, ông phải bỏ dở việc học trở về nhà sau 2 năm.